NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ AIP Ở BỆNH NHÂN BỆNH TIM THIẾU MÁU CỤC BỘ MẠN TÍNH

NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ AIP Ở BỆNH NHÂN BỆNH TIM THIẾU MÁU CỤC BỘ MẠN TÍNH
Nguyễn Văn Sơn1,2,, Trần Đức Hùng1,3, Nguyễn Thị Thanh Diễm1,3, Phạm Vũ Thu Hà1,3, Phạm Đức Minh1,3, Phạm Thị Huế1,3
Mục tiêu: Khảo sát chỉ số AIP (Atherogenic Plasma Index) và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính. Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính và 30 người được chụp động mạch vành bình thường, tham gia nghiên cứu từ 12/ 2021 đến 9/ 2022. Tính chỉ số tác nhân xơ vữa trong huyết tương (AIP)  theo công thức dựa trên kết quả xét nghiệm. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm BTTMCBMT là 67,30 ±10,48, nhóm không BTTMCBMT là 64,7 ±10,08. Giá trị trung vị của AIP ở nhóm bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính lần lượt là 0,34 (0,11 – 0,51) cao hơn so với nhóm chứng 0,18 (-0,43 – 0,37) với p > 0,05. Giá trị trung vị của AIP của nam 0,33 (0,11 – 0,51) thấp hơn so với nữ 0,35 (0,1 – 0,6) không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong nhóm BTTMCB mạn tính, giữa nhóm có và không có đái tháo đường, chỉ số AIP khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) nhưng không có sự khác biệt với hút thuốc lá, tăng huyết áp và RLLP máu. Chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa chỉ số AIP giữa các mức độ đau ngực theo phân độ CCS, giữa 2 nhóm suy tim và không suy tim. Kết luận: Chỉ số AIP không có sự khác biệt giữa hai nhóm. AIP có mối liên quan với tình trạng có đái tháo đường hoặc không đái tháo đường. Tuy nhiên, không có sự liên quan tới tuổi, giới và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác gồm hút thuốc lá, tăng huyết áp và RLLP máu. Mối liên hệ giữa AIP và tình trạng đau ngực hay suy tim cũng chưa được ghi nhận.

MÃ TÀI LIỆU

 TCYDH.2022.02806

Giá :

20.000đ

Liên Hệ

0915.558.890

Bệnh  tim  thiếu  máu  cục  bộ  mạn  tính (BTTMCBMT) là bệnh thường gặp, nhất là ở các nước phát triển và có xu hướng gia tăng nhanh ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Béo phì và rối loạn lipid máu là những yếu tố nguy cơ đã biết của bệnh tim mạch, có thể dễ dàng phòng ngừa và thay đổi được [1][4]. Rối loạn lipid máu là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với sự tiến triển của các biến cố tim mạch như đột quỵ, bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim và bệnh mạch máu ngoại vi [1]. Việc sử dụng LDL-C (Low Density Lipoprotein-Cholesterol)đơn lẻhoặc  HDL-C   (High   Density   Lipoprotein-Cholesterol)đơn thuần là không đủ để dự đoán nguy  cơ  tim  mạch,  các  nghiên  cứu  đã  chứng minh rằng khi các thông số lipid thông thường (TG-Triglycerid,   HDL-C,   LDL-C   và   TC-Total Cholesterol) vẫn ở mức bình thường, thì các tỷ lệ lipid  như  chỉ  số  tác  nhân  xơ  vữa  trong  huyết tương (AIP-Atherogenic Index of Plasma) là lựa chọn góp phần trong việc dự đoán nguy cơ phát triển các biến cố tim mạch và đánh giá hiệu quả điều trị.Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về chỉ số AIP ở bệnh nhân BTTMCBMT cũng như sự liên quan của nó với đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở BTTMCBMT. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu chỉ số AIP ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính”với hai mục tiêu sau:-Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, chỉ số AIP ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính.-Tìm hiểu mối liên quan giữa chỉ số với đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính.

Chi tiết bài viết
Từ khóa
Rối loạn lipid máu, chỉ số tác nhân xơ vữa trong huyết tương (AIP), bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính

Tài liệu tham khảo
1. Bộ Y tế, Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh động mạch vành 2020: p. tr. 54 
2. Nguyễn Thanh Xuân, Nghiên cứu mối liên quan giữa mức độ tổn thương động mạch vành với một số yếu tố nguy cơ tim mạch. Tạp chí y -dược học quân sự, 2014. Số 1-2014. 
3. Phạm Vũ Thu Hà, “Nghiên cứu sự biến đổi chỉ số tương hợp thất trái – động mạch ở người mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính trước và sau can thiệp động mạch vành qua da” Luận án tiến sĩ y học, 2021. 

You may also like...

https://thaoduoctunhien.info/nam-dong-trung-ha-thao/    https://thaoduoctunhien.info/