NGHIÊN CỨU TỶ LỆ TAI BIẾN, BIẾN CHỨNG CỦA TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ ĐIỀU TRỊ SỎI THẬN TÁI PHÁT
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ TAI BIẾN, BIẾN CHỨNG CỦA TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ ĐIỀU TRỊ SỎI THẬN TÁI PHÁT
Nguyễn Minh An1,, Bùi Hoàng Thảo
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu tỷ lệ tai biến, biến chứng của phương pháp tán sỏi nội soi qua da đường hầm nhỏ điều trị sỏi thận tái phát. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu: biến chứng trong mổ gặp 5 bệnh nhân, trong đó có 3 bệnh nhân có chảy máu phải truyền máu trong mổ (chiếm 4,0%) và 2 bệnh nhân chuyển mổ mở (chiếm 2,7%). Tỷ lệ biến chứng sau tán sỏi là 17,3%, trong đó có 3 bệnh nhân có sốt sau phẫu thuật và 1 bệnh nhân tụt dẫn lưu (chiếm 1,3%) và 7 bệnh nhân có biểu hiện chảy máu thứ phát sau phẫu thuật (chiếm 9,3%). Tỷ lệ biến chứng phân loại Clavien – Dindo: độ I là 11/75 bệnh nhân (chiếm 14,7%), biến chứng độ II là 2 bệnh nhân (chiếm 2,7%). Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy, tán sỏi nội soi qua da đường hầm nhỏ là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị sỏi thận tái phát với tỷ lệ tai biến trong phẫu thuật là 5/75 bệnh nhân (chiếm 6,7%). Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật là 13/75 bệnh nhân (chiếm 17,3%).
MÃ TÀI LIỆU
|
TCYDH.2022.02808 |
Giá :
|
20.000đ
|
Liên Hệ
|
0915.558.890
|
Sỏi tiết niệu là bệnh lý phổbiến và hay tái phát, tỷlệmắc bệnh từ1 -14% dân sốtùy từng vịtrí địa dư, trong sỏi tiết niệu sỏi thận gặp với tỷlệ40%. Bệnh gây nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt và lao động, đồng thời tốn kém trong điều trị. [1], [2], [3].Trước năm 1980, ở Việt Nam mổ mở là cách duy nhất trong điều trị ngoại khoa bệnh sỏi tiết niệu. Gần đây, nhờ sự phát triển của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh và phương tiện nội soi đã tạo nên một cuộc cách mạng trong điều trị sỏi thận, đặc biệt là tán sỏi qua da đã làm cho chỉ định mổ mở trong điều trị sỏi thận được thu hẹp dần và đôi khi chỉ là giải pháp cuối cùng khi các phương pháp ít xâm lấn thất bại hoặc không thể áp dụng. Ưu điểm của phương pháp này là ít sang chấn, là ít đau, ít tàn phá trên cơ thể và hệ tiết niệu khi can thiệp, rút ngắn thời gian hậu phẫu và thời gian phục hồi sức khỏe của bệnh nhân [2]. Tuy nhiên, tỉlệbiến chứng chung của tán sỏi qua da đường hầm tiêu chuẩn còn khácao, thường thấy nhất làchảy máu dotổn thương nhu môthận vàcác cấu trúc lân cận. Các biến chứng của tán sỏi qua da thường liên quan đến vịtrívàkích thước của dụng cụnong đường hầm vào thận. Đểnâng cao độan toàn của tán sỏi qua da các tác giảcóxu hướng sửdụng các dụng cụnong đường hầm vào thận cókích thước nhỏhơn. Hơn nữa, đối với những trường hợp sỏi thận tái phát sau can thiệp ngoại khoa thì tổ chức xơ quanh thận và những biến đổi về giải phẫu của hệ thống đài bể thận sau mổ mở lấy sỏi có thể gây ra khó khăn cho quá trình nong tạo đường hầm cũng như cần phải sử dụng nhiều đường hầm hơn trong quá trình tán sỏi [1], [3]. Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ là một phương pháp có tính hiệu quả và an toàn cao trong điều trị sỏi thận. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá tính an toàn của tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ chuyên biệt điều trị sỏi thận tái phát. Xuất phát từ những vấn đề trên, để ứng dụng những tiến bộ của thế giới và có những luận cứ khoa học về phương pháp điều trị này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Nghiên cứu tỷ lệ tai biến, biến chứng của phương pháp tán sỏi nội soi qua da đường hầm nhỏ điều trị sỏi thận tái phát tại bệnh viện Xanh Pôn
Recent Comments