Nghiên cứu áp dụng phân loại mô bệnh học ung thư biểu mô phế quản của tổ chức y tế thế giới (1999)
Luận án Nghiên cứu áp dụng phân loại mô bệnh học ung thư biểu mô phế quản của tổ chức y tế thế giới (1999).Ung thư phổi là u ác tính phát sinh từ phế quản, tiểu phế quản tận, phế nang hoặc từ các tuyến phế quản. Trên 90% các ung thư phổi là ung thư biểu mô phế quản nên thuật ngữ ung thư biểu mô phế quản tương đương với ung thư phổi.
MÃ TÀI LIỆU |
LA.2007.00858 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
Ung thư phổi đã được nói đến lần đầu tiên vào nửa đầu thế kỷ XIV do Agricola G và Paracolus. Tuy vậy, cho đến cuối thế kỷ 19, UTP vẫn là bênh ít gặp; vì vậy, Rokitansky K. đã nhận xét: “Ung thư nguyên phát rất ít khi xuất hiên ở phổi”. Cho tới năm 1912, Adler I. mới chỉ thống kê được 374 trường hợp UTP đã công bố trên y văn thế giới. Thế nhưng chỉ riêng năm 2001, trên toàn thế giới đã có trên 1,04 triệu trường hợp UTP mới được phát hiên, chiếm 12,8% tổng số các u ác tính nói chung [132]. Ở Mỹ, những năm 30 của thế kỷ 20, UTP đứng hàng thứ 7 trong các ung thư nói chung, đến thập kỷ 70 đã đứng hàng đầu, riêng năm 1999 đã có tới 171.000 trường hợp UTP mới được chẩn đoán và có 158.800 trường hợp tử vong do loại ung thư này [110]. Theo tính toán của Hôi Ung thư Hoa kỳ, năm 2004 ở Mỹ có khoảng 160.440 trường hợp tử vong do UTP, so với 56.730 trường hợp tử vong do ung thư đại – trực tràng (loại ung thư gây tử vong đứng hàng thứ 2). Ở Châu Âu, 21% các trường hợp tử vong ở nam giới và 8% các trường hợp tử vong ở nữ giới là do UTP [150]. Tại Anh, năm 1991 có 22.000 trường hợp tử vong ở nam giới và 10.000 trường hợp tử vong ở nữ giới do UTP. Tỷ lệ tử vong ở nam giới do UTP tại Anh hàng năm khoảng 300/10 vạn nam giới được coi là tỷ lệ tử vong cao nhất thế giới hiện nay [153].
Ở Việt Nam, theo thống kê của Đỗ Bá Hiển, UTP đứng thứ 5 trong các loại ung thư ở nam giới và đứng thứ 10 ở nữ giới thời kỳ 1955-1956 [11, 13]; đến năm 1991-1992, UTP đã đứng hàng đầu ở nam giới (chiếm 22,4%) và đứng hàng thứ 4 ở nữ giới [23]. Thống kê của Nguyễn Chấn Hùng và CS cho biết, UTP đứng hàng thứ 2 ở nam giới và thứ 9 ở nữ giới trong tổng số các ung thư ở Thành phố Hồ Chí Minh và mọt số tỉnh phía nam (1991-1992) [15]. Theo ghi nhân tình hình ung thư ở Việt nam giai đoạn 2001-2004 của Nguyễn Bá Đức và CS công bố năm 2006, UTP đứng thứ nhất ở nam giới tại Hà Nôi, Hải Phòng và Thái Nguyên, đứng hàng thứ 3 ở Huế’ sau ung thư gan và ung thư dạ dày, ở Cần thơ, UTP lại chỉ đứng ở vị trí thứ 4 sau ung thư gan, ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng [9].
Trong các phương pháp chẩn đoán UTP, chẩn đoán mô bệnh học (MBH) là bắt buôc và là chuẩn vàng. Việc định typ MBH rất quan trọng và cần thiết bởi ngoài ý nghĩa chẩn đoán xác định, typ MBH còn là mọt trong những tiêu chí quan trọng giúp nhà lâm sàng chọn lựa phương pháp điều trị và tiên lượng bệnh. Bởi vây, đã từ lâu các nhà bệnh học đã cố gắng đưa ra những phân loại mô học có các tiêu chuẩn rõ ràng, khách quan, có tính nhất quán về sinh học, có khả năng tái lâp được và có ít nhất các trường hợp u không xếp loại được, đồng thời vừa dễ áp dụng, vừa có ý nghĩa thực tế’ (typ mô học gắn với phương pháp điều trị hiệu quả nhất và phản ánh được tiên lượng bệnh). Tuy nhiên, do sự phong phú về nguồn gốc tế” bào bình thường ở phổi đã tạo nên sự phức tạp về các typ mô học của UTP. Mạt khác, do hình ảnh vi thể trong UTP rất đa dạng, đồng thời sự biến đổi của các typ mô học lại luôn diễn tiến, cũng như sự hiểu biết của chúng ta ngày càng sâu hơn do được sự hỗ trợ của nhiều kỹ thuât hiện đại nên đã có nhiều thay đổi về các tiêu chuẩn của từng typ mô học và có nhiều cách phân loại. Chỉ tính riêng trong hơn 30 năm gần đây đã có khoảng 40 phân loại mô học UTP khác nhau được công bố trên y văn và đạc biệt TCYTTG cũng đã có tới 3 phân loại được công bố vào các năm 1967, 1981 và gần đây nhất là năm 1999 [161]. Mạc dù TCYTTG chưa bao giờ coi những ấn phẩm này là chuẩn mực, bắt buôc phải tuân theo nhưng nó vẫn được sử dụng phổ biến và rông rãi nhất trên toàn cầu [51], [71], [102], [172].
Cũng giống các ung thư nói chung, trong UTP có những trường hợp các tế bào u rất kém biêt hoá; do vây, nếu chỉ dựa đơn thuần trên các tiêu bản nhuôm H.E thường quy đôi khi rất khó định typ mô học chính xác. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghê sinh học đã sản xuất được nhiều kháng thể đặc hiêu, do đó kỹ thuât hoá mô miễn dịch đã ra đời và ngày càng được ứng dụng rông rãi trong chuyên ngành Giải Phẫu Bênh, giúp các nhà bênh học chẩn đoán xác định và/hoặc chẩn đoán phân biêt các typ mô bênh học, các loại tổn thương khác; qua đó chất lượng chẩn đoán được nâng cao rõ rêt.
Viêc áp dụng phân loại mới của TCYTTG năm 1999 vừa mang tính câp nhât vừa góp tiếng nói chung trong chẩn đoán và vừa giúp cho viêc thống kê, đối chiếu giữa các nghiên cứu về UTP ở các nước và các khu vực khác nhau trên thế giới được dễ dàng, song đây còn là môt phân loại rất mới. ở Viêt nam mới chỉ có rất ít các cơ sở y tế lớn tại Hà Nôi và Thành phố Hồ Chí Minh sử dụng phân loại này; các nghiên cứu chuyên sâu về mô bênh học UTP theo phân loại lần thứ 3 (1999) của TCYTTG hầu như chưa có, đặc biêt là các typ mới và các biến thể. Bởi vây, chúng tôi thực hiên đề tài nghiên cứu này với mục tiêu:
1. Mô tả hình thái mô bệnh học của các typ ung thư biểu mô phế quản theo phân loại lần thứ s (1999) của To chức Y tế thế giới.
2. Giới thiệu mọt số biến thể của ung thư biểu mô phế quản.
Recent Comments