Nghiên cứu phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo ở trẻ em
Luận án Nghiên cứu phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo ở trẻ em
Luận án tiến sỹ y học : Lê Thị Kim Xuân
Chuyên ngành : Nhãn Khoa : Năm bảo vệ 20001
Hướng dẫn khoa học : PGS.TS Nguyễn Duy Tân ; PGS.TS Tôn Thị Kim Thành
Đục thể thuỷ tỉnh (TTT) ở trẻ em là một bệnh lý phức tạp và khá phổ biến, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù loà hoặc làm giảm thị lực đáng kể ở lứa tuổi này. Trên thế giới tỷ lệ trẻ em mù do đục TTT gập từ 15 – 20% ở các nước phát triển [79], và chiếm từ 10-30% trong các trường mù [140]. Ở Việt Nam, chưa có số liệu thống kê chung, nhưng trong năm 1998 tỷ lệ trẻ mắc bệnh dục TTT đã điều trị tại Viện Mắt Trung ương là 15% trong tổng số bệnh nhân bị dục TTT. Số lượng phẩu thuật đục TTT ở trẻ em chiếm 8,8% tổng số đại phẩu thuật.
MÃ TÀI LIỆU
|
LA.2001.00541 |
Giá :
|
|
Liên Hệ
|
0915.558.890
|
Đục TTT ở trẻ em rất đa dạng về hình thái lâm sàng, được sắp xếp theo nhóm tuỳ theo căn nguyên của bệnh. Đánh giá và điều trị đục TTT ở trẻ em khó hơn ở người lớn bởi vì bộ máy thị giác của trẻ em chưa trưởng thành dễ bị tổn hại, dẫn đến nhược thị đo thiếu cảm giác tạo ảnh ở võng mạc. Do đặc điểm giải phẩu của mất trẻ em, nhân cầu còn đang phát triển, phản ứng của mất với phẫu thuật nặng nề hơn, nên có nhiều biến chứng trong và sau phẩu thuật, làm cho kết quả về giải phẫu cũng như về chức năng không cao [40],[45],[80], [95],[113], [122]. Điều trị bệnh dục TTT ở trẻ em không chỉ đơn thuần là phẩu thuật, mà vấn đề quan trọng quyết định kết quả điều trị là thời điểm phẩu thuật, cách thức điều chỉnh quang học và tập luyện để phục hồi thị giác sau mổ.
Cho đến nay trên thế giới có 4 phương pháp điều chỉnh quang học sau mổ lấy TTT cho trẻ em là: đeo kính gọng, dùng kính tiếp xúc, phẫu thuật đắp giác mạc và đặt thể thuỷ tinh nhân tạo. Mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm riêng [36],[39],[132].
Đeo kính có thể hữu ích cho việc phục hồi thị lực của trẻ sau mổ đục TTT hai mắt, nhưng lại không sử dụng được trong trường hợp chỉ đục TTT một mắt, do sự tạo ảnh ở hai mắt không tương đồng.Kính tiếp xúc có ưu điểm hơn ở chỗ là có thể sử dụng được trong trường hợp đục TTT một mắt. Tuy nhiên, kính tiếp xúc rất dễ bị đánh mất vì thường xuyên phải tháo lắp và có thể gây nhiễm trùng, cần thiết phải khám theo dõi thường xuyên, giá thành lại đất, do đó nó khó sử dụng ở những nước đang phát triển [25][36][77], ở Việt Nam chưa có điều kiện sử dụng rộng rãi.
Phương pháp đáp giác mạc (epikeratophakia) để điều chỉnh quang học sau mổ thì rất khó thực hiện ở trẻ em [51],[79],[103]. Ở nước ta còn chưa thực hiện được vì chưa có ngân hàng mắt, vả lại hiệu quả của phương pháp này cũng chưa cao.
Điều chỉnh quang học bằng thể thuỷ tỉnh nhân tạo (TTTNT) là phương pháp đặt TTTNT vào vị trí tự nhiên của TTT, nên tạo điều kiện tốt cho việc phục hồi thị lực và chức năng thị giác ở trẻ em. Phẫu thuật đật TTTNT có thể sử dụng được trong đục TTT một mất, đồng thời còn là phương pháp kinh tế nhất [31],[34],[37],[40],[42],[87], [107). Nhưng đây là một phẩu thuật nên vẫn có những nguy cơ của phẩu thuật, và còn đang ở trong thời kỳ nghiên cứu.
Ở Việt Nam, kỹ thuật đặt TTTNT ở người lớn mới được phổ biến từ cuối năm 1992. Cùng thời gian này phẩu thuật đật TTTNT ở trẻ em cũng bắt đầu được tiến hành tại khoa Mắt trẻ em Viện Mất, do PGS. Tôn Kim Thanh chủ trì. Kết quả đạt được rất đáng khích lệ nhưng cũng chỉ mới là bước đầu [7][11][12], do đó việc nghiên cứu phẩu thuật này là rất cần thiết bởi lẽ:
Thứ nhất là, từ trước tới nay tất cả trẻ em đục TTT một mất ở nước ta được phẫu thuật chỉ nhằm giải quyết khía cạnh thẩm mỹ, chứ không đem lại thị lực hữu ích cho trẻ. Trong khi đó kính tiếp xúc thì lại chưa có điều kiện sửdụng, cho nên TTTNT là biện pháp duy nhất để phục hồi chức năng thị giác sau mổ đục TTT một mắt,Thứ hai là, đối với trẻ em nhỏ ở Việt Nam bị đục TTT hai mắt sau khi mó việc đeo kính rất khó khăn, do đó những trẻ này sau phẫu thuật TTT hấu như đều bị tàn phế do nhược thị nặng. Đối với những trẻ lớn hơn thì sau khi mổ đục TTT hai mát, đeo kính cũng gây nhiều phiền phức và kết quả chức năng không cao.
Nhằm giải quyết những yêu cầu bức xúc trên đây và mở ra một khả năng mới để phục hồi thị lực cho trẻ em bị đục thể thuỷ tỉnh, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài "Nghiên cứu phẩu thuật đặt thể thuỷ tinh nhân tạo ở trẻ em" với những mục tiêu như sau:
1- Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng của bệnh dục thể thuỷ tỉnh ở trẻ em.
2- Xử lý dục TTT và đặt TTTNT theo các hình thái bệnh lý ở trẻ em. Đánh giá kết quả sớm và lâu dài của phẫu thuật.
3- Đóng góp kinh nghiệm về chỉ định và kỹ thuật mổ lấy thể thuỷ tỉnh ngoài bao, đật thể thuỷ tinh nhân tạo hậu phòng ở trẻ em.
Recent Comments