Nghiên cứu rối loạn cầm máu-đông máu ở trẻ bị nhiễm khuẩn huyết tại bệnh viện nhi trung ương
Luận án Nghiên cứu rối loạn cầm máu-đông máu ở trẻ bị nhiễm khuẩn huyết tại bệnh viện nhi trung ương.Ở nước ta cũng như ở các nước đang phát triển, bệnh nhiễm khuẩn vãn còn dứng hàng đầu trong mô hình bệnh tật. Trong các bệnh nhiễm khuẩn thì nhiễm khuán huyết (NKH) chiếm một tỷ lộ khá cao. Theo nghicn cứu của một số tác giả ở Việt Nam như ở bệnh viện Nhi Đổng I thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ NKH là 43,54% trong các bênh nhiễm khuẩn. Tý lệ bệnh nhân bị NKH trong tống số các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn có chỉ định cấy máu ở bệnh viện Nhi Trung ương là 9,86%, ử bệnh viện Bạch Mai là 10,74%, bệnh viện Trung ương Huế là 6,7% [8,
MÃ TÀI LIỆU |
LA.2004.00697 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
14, 15, 31,39]. Ớ Mỹ, theo thống kê của Trung tâm kiểm soát bệnh tật, thì hàng năm có khoảng 300.000-500.000 người bị NKH và ước tính tỷ lệ tử vong do NKH là 30-50 %. Trong 2 năm 1988 – 1989 tại Boston (Mỹ) tỷ lệ NKH ở nhóm người có nguy cơ cao như mắc các bệnh suy giảm miễn dịch, các bệnh về máu và tim mạch là 14% [104, 129, 147].
Chẩn đoán quyết định căn nguyên vi khuẩn gây bệnh Ịà nuôi cấy phân lập vi khuẩn từ máu. Căn nguyên vi khuán gây nhiễm khuẩn huyết rất đa dạng, vai trò gây NKH của vi khuẩn gram (-) và gram (+) được coi là ngang nhau trong những thập niên gần đây [4, 7, 14, 15, 29, 31, 37, 130, 141].
Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh nhiễm trùng toàn thân nặng, bệnh không chi có tý ỉộ tử vong cao mà còn để lại các di chứng nặng nề do sự xâm nhiễm ồ ạt, lặp đi lặp lại của các vi khuẩn và độc tố của chúng vào trong máu [63]. Nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu cầm mấu ờ mức phân tử, các tác giả đã chứng minh được rằng trên các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết, đéu có hiện tượng kích hoạt hệ thống dỏng máu. Vai trò của tế bào nội mạc, tiểu cầu, bạch cầu, các chất kích hoạt cytokin, sự tiêu thụ tiểu cầu và các yếu tố đông máu…dưới tác động của vi khuẩn và các độc tố của vi khuẩn cho thấy nhiễm khuẩn huyết và rối loạn cầm máu-đông máu là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Rối loạn cầm máu
– dông máu không chi là một biến chứng hay gặp trong NKH mà còn là một Irong những nguyên nhân chính gây tử vong cho bệnh nhân. Một số công trình nghiên cứu rối loạn cầm máu – đông máu trcn bệnh nhân NKH của nhiều tác giả cho thấy mức độ nguy hiểm của bệnh như các trường hợp xuất huyết tối cấp trong NKH do não mô cầu, các tác giả nhận thấy gần như 100% các trường hợp này có giảm số lượng tiếu cầu và bị tiêu thụ các yếu tố đông máu [52, 53, 59, 62, 66, 68, 70,71, 78, 106, 107, 136, 137, 160]. Tỷ lộ bệnh nhân bị đông máu rải rác lòng trong mạch (ĐMRRTLM) cũng chiếm một tỷ lệ khá cao ở các nghicn cứu của một số tác giả như Hernandez B nghiên cứu trcn 126 bệnh nhân bị NKH do vi khuẩn gram (-) thấy 50% bị ĐMRRTLM, tỷ lệ tứ vong của các bệnh nhân này là 36% [90]. Kornelisse RF nghiên cứu ở bệnh viện Nhi Sophia thấy tỷ lệ bị ĐMRRTLM là 58% và 21% bệnh nhân bị tử vong [106]. Kregcr B.E và cộng sự nghiên cứu trên 612 trẻ NKH do gram (-) trong 10 năm thấy có 64% bệnh nhân có rối loạn cầm máu – đông máu hoặc giảm tiểu cầu, 10% bệnh nhân bị ĐMRRTLM cấp [108]. Tý lệ bệnh nhân bị ĐMRRTLM cỉo các vi khuẩn gram (+) cũng rất cao. Mazurov V.I. thấy tỷ lệ ĐMRRTLM là 75% ờ bệnh nhân bị NKH do tụ cầu vàng [118], Winkelman nghiên cứu trên 139 bệnh nhân bị bỏng có NKH trong đó có 80% do tụ cầu vàng cũng thấy tỷ lộ bị ĐMRRTLM và shock là 1/2 tổng số bệnh nhân [159]. Các tác giả đều cho rằng các rối loạn cầm máu – đông máu đặc biệt là ĐMRRTLiM đã gây ra hiện tượng xuất huyết rất nặng nề trôn lâm sàng, đe doạ tính mạng người bộnh nếu như không chẩn đoán và xử trí kịp thời.
Một vài nghiên cứu của một số tác giả ở trẻ em Việt Nam cũng cho thấy rối loạn cầm máu – đông máu chiếm tỷ lộ không nhỏ trong NKH. Nguyễn Thị Kim Nga nghicn cứu nhiễm khuẩn huyết sơ sinh ớ bệnh viện Nhi Trung ương cho biết tỷ lộ trẻ cm bị giảm tiểu cầu (tiểu cầu < 90 X 10
9/ 1) là 40% và có 25,9% trẻ có biểu hiện xuất huyết trên lâm sàng [27]. Cao Việt Tùng nghiên cứu trên bệnh nhân nhi bị shock do NKH thấy tỷ lệ bị ĐMRRTLM là 68,8% [47].
Ở Việt Nam hiộn nay vẫn có rất ít công trình nghiên cứu rối loạn cầm máu – đông máu ờ bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt là rối loạn cầm máu – đông máu ở trẻ em và trẻ sơ sinh. Vì vậy, chúng tôi thấy nghicn cứu những rối loạn cầm máu – đông máu ở trẻ bị nhiễm khuẩn huyết là một việc rất quan trọng để phát hiện sớm các rối loạn cầm máu – dồng máu, hiểu dược mức độ rối loạn cầm máu – đông máu, góp phần chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời để giảm bớt những hậu quả do các rối loạn cầm máu – đông máu gây ra và giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ bị nhiễm khuẩn huyết.
Mục tiêu nghiên cứu:
– Nghiên cứu sự thay đổi một số chỉ số về cầm máu – đỏng máu ở trẻ bị nhiễm khuẩn huyết
– Tìm hiểu sự licn quan giữa rối loạn cầm máu – đông máu với một số biểu hiện lâm sàng và vi khuẩn gây bệnh.
Kết quả thu được hy vọng sẽ góp phần đề xuất những biện pháp điều trị thích hợp và toàn diện đối với trẻ bị nhiễm khuẩn huyết.
Recent Comments