Nghiên cứu điều trị viêm tụy mạn sỏi tụy bằng phương pháp kết hợp PT Frey và PTBeger
Luận văn Nghiên cứu điều trị viêm tụy mạn sỏi tụy bằng phương pháp kết hợp PT Frey và PTBeger.Viêm tụy mạn là bệnh viêm đặc trưng bởi quá trình phá hủy nhu mô tụy tiến triển, không hồi phục, dần dần dẫn tới xơ hóa nhu mô tụy gây suy giảm chức năng tụy nội tiết và ngoại tiết [46], [62]. Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi tùy từng nước, ở châu Âu là 7/100 000 dân, ở châu Á là 14/100 000 dân [86]. Đây là bệnh lý thoái hóa tiến triển do nhiều căn nguyên khác nhau. Nghiện rượu được coi là nguyên nhân hàng đầu gây VTM ở các nước phương Tây (chiếm từ 65% đến 90% các trường hợp) [22]. Điều trị VTM chủ yếu là nội khoa với mục đích giảm đau và làm chậm quá trình suy tụy nội tiết và ngoạ i tiết gây ra do phá hủy nhu mô tụy [57]. Điều trị nội soi (cắt cơ thắt, lấy sỏi, dẫn lưu ống tụy chính…) với mục đích dẫn lưu dịch tụy vào ống tiêu hóa [113]. Điều trị phẫu thuật đặt ra trong trường hợp đau không giảm bằng điề u trị nội khoa, có biến chứng và nghi ngờ ung thư. Các phương pháp phẫu thuật có thể kể đến như PT Puestow-Gillesby, PT Partington-Rochelle, PT cắt khối tá tụy, PT cắt thân và đuôi tụy, PT cắt tụy toàn bộ, PT Frey, PT Beger, PT Berne, PT Izbicki, PT cắt thần kinh giao cảm…
MÃ TÀI LIỆU |
CAOHOC.00273 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
PT Frey và PT Beger là hai phương pháp điều trị đạt hiệu quả giảm đau lâu dài trên 90% các trường hợp, bảo tồn được chức năng tụy nội tiết và ngoại tiết nên được áp dụng phổ biến hiện nay [22]. PT Frey kết hợp cắt khu trú đầu tụy với mở dọc ống tụy chính ở thân, đuôi tụy do vậy dẫn lưu được toàn bộ hệ thống ống tụy ở đầu, thân và đuôi tụy nhưng không giải quyết được các biến chứng chèn ép các cơ quan lân cận do khối viêm ở đầu tụy. PT Beger cắt gần toàn bộ đầu tụy, bảo tồn tá tràng, điều trị được các biến chứng do khối viêm ở đầu tụy chèn ép cơ quan bên cạnh. Hạn chế của PT Beger là việc cắt bỏ đầu tụy đòi hỏi phải kiểm soát được TM mạc treo tràng trên đoạn sau đầu tụy. Đây là thì khó khăn nhất của phẫu thuật, đặc biệt trong trường hợp có tăng áp lực TM cửa, có thể gây chảy máu trong mổ và tăng tỷ lệ biến chứng sau mổ. PT Beger cũng không dẫn lưu được ống tụy ở thân và đuôi tụy.
Đã có một số cải tiến của PT Frey và PT Beger như PT Berne, PT Izbicki… nhưng chưa có phương pháp nào thực sự kết hợp hết ưu điể m của hai phẫu thuật trên. Do vậy chúng tôi áp dụng một phương pháp kết hợp PT Frey và PT Beger trong điều trị VTM, sỏi tụy, với những ưu điểm sau:
• Cắt bỏ nhu mô đầu tụy triệt để hơn so với PT Frey nguyên bản nên giải quyết được biến chứng chèn ép do khối viêm khu trú ở đầu tụy.
• Đặc biệt điều trị biến chứng hẹp đường mật nhờ mở rộng ống mật chủ vào miệng nối tụy – hỗng tràng mà không phải làm miệng nối mật – ruột.
• Hạn chế được nguy cơ chảy máu trong mổ do không phải phẫu tích vào mặt sau đầu tụy (nhất là trong trường hợp có tăng áp lực TM cửa).
• Dẫn lưu được ống tụy chính ở thân và đuôi tụy.
Trên y văn thế giới, việc kết hợp PT Frey và PT Beger được Gloor mô tả năm 2001 [51], tác giả mới mô tả kỹ thuật chứ chưa đánh giá kết quả điều trị. Tại Việt Nam, PT Frey được thông báo lần đầu tiên năm 2002 [12], được đánh giá về chỉ định, kỹ thuật và kết quả điều trị năm 2008 [9]. Chúng tôi chưa thấy thông báo nào về PT Beger. Kết hợp PT Frey và PT Beger được Trịnh Hồng Sơn thực hiện trên 14 BN đầu tiên từ năm 2002 [14] nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ kết quả của phương pháp phẫu thuật này.
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu điều trị viêm tụy mạn sỏi tụy bằng phương pháp kết hợp PT Frey và PTBeger” nhằm mục tiêu:
1. Xác định đặc điểm tổn thương viêm tụy mạn sỏi tụy của nhóm bệnh
nhân được điều trị bằng phương pháp kết hợp PT Frey và PT Beger.
2. Đánh giá kết quả của phương pháp kết hợp PT Frey và PT Beger trong điều trị viêm tụy mạn sỏi tụy.
Recent Comments