Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị quá sản nội mạc tử cung bằng Lynestrenol
Luận án Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị quá sản nội mạc tử cung bằng Lynestrenol.Rong kinh – rong huyết (RKRH) là loại bênh lý thường gặp trong thực tiễn lâm sàng phụ khoa. RKRH là triệu chứng của nhiều loại bênh lí trong đó có quá sản nôi mạc tử cung (QSNMTC). QSNMTC hay gặp ở những chu kỳ kinh nguyệt (CKKN) không phóng noãn, đặc biệt quanh thời kì mãn kinh. Bệnh cảnh lâm sàng của QSNMTC rất nghèo nàn trừ khi bị RKRH. Hiện tượng RKRH trong QSNMTC là do nôi mạc tử cung (NMTC) chịu tác đông đơn đôc liên tục kéo dài của estrogen mà không có sự tác đông kế tiếp hiệp đổng đối kháng của progesteron. Do đó NMTC phát triển dày lên không chế tiết và khi bong không gọn, không triệt để, do đó gây nên tình trạng chảy máu kéo dài [22, 90, 164]. QSNMTC có tiềm năng trở thành ung thư NMTC nếu không được chẩn đoán sớm, điều trị đúng đắn, kịp thời [22, 90, 168, 177].
MÃ TÀI LIỆU |
LA.2005.00771 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
Tại các nước công nghiệp phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ, nơi ung thư NMTC có tỉ lệ cao nhất, nếu như trong những năm trước thập niên 60 của thế kỉ 20, tỉ lệ ung thư NMTC/ ung thư CTC là 1/3 thì trong những năm cuối thể kỉ 20 tỉ lệ này là 1/1 [22].
Ở Hoa Kỳ, người ta ước tính hàng năm có 32.000 cas mới bị ung thư NMTC trong thập niên 90 của thế kỉ 20 [70, 139].
Ở Việt Nam cho tới nay, mặc dù chưa có những thống kê chính thức trên toàn quốc, nhưng qua số liệu ghi nhận được ở Hà Nôi năm 1991 – 1992, ung thư NMTC có tỉ lệ là 10,2/ 100 000 dân, tương đương với con số ghi nhận được ở Nhật Bản là 10,9 / 100 000 dân trong cùng thời kỳ [22].
Do triệu chứng lâm sàng quá nghèo nàn thường chỉ có chậm kinh, sau đó là RKRH nên để chẩn đoán chính xác QSNMTC không thể chỉ dựa vào bệnh cảnh lâm sàng. Các phương pháp thăm dò cận lâm sàng được sử dụng chẩn đoán QSNMTC có tính chuyên biệt cao. Đó là: Nghiên cứu tế bào học cổ tử cung – âm đạo (CTC – AĐ) và mô bệnh học NMTC, siêu âm tử cung và hai phần phụ, đặc biệt đo đô dày của NMTC, soi buồng tử cung để đánh giá chính xác tổn thương NMTC và cũng giúp định hướng lấy sinh thiết vùng NMTC bệnh lí, cuối cùng là nghiên cứu NMTC qua các mảnh sinh thiết hoặc trên tử cung bị cắt bỏ. Chẩn đoán QSNMTC quả là khó khăn. Song điều trị và theo dõi còn phức tạp hơn nhiều và đòi hỏi phải kiên nhẫn. Điều trị bảo tồn hay cắt bỏ tử cung là điều các thầy thuốc phụ khoa phải cân nhắc. Dựa vào các yếu tố: tuổi của bệnh nhân, mức đô thương tổn ở NMTC, nhu cầu mang thai và sinh đẻ, sự hợp tác của bệnh nhân với thầy thuốc để quyết định phương hướng điều trị. Điều trị bảo tồn có thể dùng thuốc (đơn giản và dễ sử dụng nhất là các loại progestin) hoặc loại bỏ NMTC bằng các phương pháp khác như: đốt điện, đốt nhiệt và đốt laser NMTC v.v… Khi điều trị bảo tồn không kết quả phải chuyển sang điều trị ngoại khoa cắt bỏ tử cung vì QSNMTC có thể tiến triển thành ung thư NMTC trong 5, 10 thậm chí 20 năm sau đó [90, 139, 177]. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, nhiều tác giả nước ngoài đã sử dụng progestin để điều trị QSNMTC và cho nhiều kết quả khả quan [90, 97, 177, 180, 183, 188]. Ngày nay, nhiều tác giả coi chẩn đoán và điều trị bệnh sớm cũng là phương pháp phòng bệnh tích cực [174].
Ở Việt Nam cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào đầy đủ và có hệ thống về vấn đề này, đặc biệt là điều trị QSNMTC bằng một loại Progestin mới thuộc nhóm 19-Norsteroid là Lynestrenol (biệt dược là Orgametril). Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị quá sản nội mạc tử cung bằng Lynestrenol” với hai mục tiêu:
1. Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng QSNMTC.
2. Đánh giá kết quả điều trị bảo tồn QSNMTC điển hình bằng Lynestrenol (biệt dược là Orgametril).
Recent Comments