TỶ LỆ ECC VÀ S-ECC Ở TRẺ MẪU GIÁO TỪ 3 TUỔI TẠI NHỮNG VÙNG CHƯA CÓ CHƯƠNG TRÌNH FLUOR HÓA NƯỚC MÁY: MỘT NGHIÊN CỨU CẮT NGANG TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH VÀ HUYỆN CỦ CHI, TP.HCM
TỶ LỆ ECC VÀ S-ECC Ở TRẺ MẪU GIÁO TỪ 3 TUỔI TẠI NHỮNG VÙNG CHƯA CÓ CHƯƠNG TRÌNH FLUOR HÓA NƯỚC MÁY: MỘT NGHIÊN CỨU CẮT NGANG TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH VÀ HUYỆN CỦ CHI, TP.HCM
Quách Hữu Thịnh1, Nguyễn Thị Thảo Vân1, Hoàng Trọng Hùng2,
1 Bệnh viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh
2 Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Sâu răng sớm ở trẻ em (ECC) vẫn luôn là vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển. Đặc biệt ở trẻ nhỏ, sâu răng và mất răng sữa sớm có thể dẫn đến trẻ ăn nhai kém, phát âm không chuẩn, hàm răng vĩnh viễn bị xô lệch, ảnh hưởng đến sự phát triển thẩm mỹ và thể chất về sau. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ ECC và S-ECC ở trẻ mẫu giáo 3 tuổi tại những vùng chưa có chương trình Fluor hóa nước máy ở TPHCM theo chỉ số ICDAS II. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 444 trẻ mẫu giáo 3 tuổi học tại các trường mầm non ở hai huyện Bình Chánh và huyện Củ Chi tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thu thập thông tin về việc chăm sóc răng miệng của trẻ tại nhà thông qua việc phỏng vấn cha mẹ bằng bảng câu hỏi. Sử dụng gương và thám trâm kết hợp với ánh sáng đèn led đeo đầu để xác định sang thương sâu răng theo tiêu chí của hệ thống ICDAS II và tình trạng vệ sinh răng miệng theo chỉ số OHI-S. Kết quả: Trong số 444 trẻ 3 tuổi tham gia nghiên cứu, tỷ lệ trẻ có ECC ở mức rất cao, 80,6% trẻ có ECC tính từ mức s1 và 46,8% trẻ có ECC từ mức s3. Tỷ lệ S – ECC tính từ mức s3mt–mr ≥4 của trẻ là 27,0% trên cà 2 khu vực khảo sát. Tỷ lệ S – ECC tính từ mức s1mt–mr (r53-r63) ≥1 là 71,2%. Huyện Bình Chánh có tỷ lệ cao hơn huyện Củ Chi. Chỉ số trung bình s1mt–r và s3mt –r là 6,6±4,8 và 4,5±4,8. Chỉ số trung bình s1mt–mr là 12,27±14,41, s3mt –mr là 9,18±12,64. Kết luận: Tỷ lệ sâu răng ở trẻ vẫn còn rất cao, do đó cần chú trọng quan tâm nhiều hơn đến các chương trình chăm sóc sức khoẻ tại cơ sở giáo dục và tại cộng đồng, đẩy mạnh công tác chương trình nha học đường, tập trung nguồn lực vào đối tượng trẻ nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo.
MÃ TÀI LIỆU
|
TCYDH.2022.02906 |
Giá :
|
20.000đ
|
Liên Hệ
|
0927.007.596
|
Sâu răng sớm ởtrẻem (ECC) là một trong những vấn đềsức khoẻphổbiến nhất ởtrẻem, ảnh hưởng đáng kểđến xã hội1. Một sốnghiên cứu đã đánh giá và phân loại các yếu tốnguy cơ của ECC, chẳng hạn nhưcác yếu tốxã hội học, chếđộăn uống, vệsinh răng miệng và các yếu tốliên quan đến hệvi khuẩn răng miệng và việc cho con bú bình kéo dài. Tuy nhiên, mức độảnh hưởng của các yếu tốnguy cơ khác nhau này đến ECC vẫn chưa được xác định rõ ràng1.Các nghiên cứu vềECC trên thếgiới thường tập trung vào tỷlệhiện mắc trong dân sốmục tiêu2,3, có rất ít các nghiên cứu đánh giá tỷlệmới mắc của ECC theo lứa tuổi. Một nghiên cứu dọc trong 3 năm của Ghazal và cộng sựđánh giá tỷlệcủa ECC trong số96 trẻem người Mỹgốc Phi lúc 1 tuổi 4. Kết quảcho thấy tỷlệmắc mới ECC lúc 2 tuổi và 3 tuổilần lượt là 39,3% và 65,8 %. Điều này nhấn mạnh rằng việc đánh giá tỷlệmắc mới ECC là một yếu tốquan trọng có thểgiúp đánh giá nguy cơ phát triển sâu răng trong tương lai ởtrẻem đểcó hướng can thiệp phù hợp. Song, tại Việt Nam, những nghiên cứu vềtỷlệECC và S-ECC theo độtuổi còn rất ít đặc biệt là trẻem ởđộtuổi mẫu giáo sống trong vùng chưa có flour hoá nước máy. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục đích xác định tỷlệECC và S-ECC ởtrẻmẫu giáo từ3 tuổi tại những vùng chưa có chương trình Fluor hóa nước máy ởTPHCM theo chỉsốICDAS II
Recent Comments