Một số kết quả bước đầu về chẩn đoán và điều trị đặc hiệu hen phế quản do bụi nhà
Luận án Một số kết quả bước đầu về chẩn đoán và điều trị đặc hiệu hen phế quản do bụi nhà
Luận án tiến sỹ y học : Trịnh Mạnh Hùng
Chuyên ngành : Dị Ứng -Miễn dịch học năm bảo vệ : 2000
Hướng dẫn khoa học : GS.TSKH Nguyễn Năng An ; GS.TS Đào Văn Chinh
Trong các bệnh dị ứng đường hô hấp, hen phế quản là bệnh khá phổ biến ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Bệnh có xu hướng tăng nhanh, liên quan đến nhiều chuyên ngành y học: Dị ứng học, Miễn dịch học, Phổi học, Tai Mũi Họng, Nhi khoa và Nội khoa… Bệnh mang tính lâu dài, làm ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt và đời sống, đôi khi còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng dẫn đến tử vong.
Theo những thống kẻ mới đây cho thấy, số người mắc bệnh hen phế quản chiếm tỷ lệ 6% – 9% dân số các nước. Riêng ở Việt Nam, theo những tính toán của Bộ môn Dị ứng – ĐHY Hà Nội và Khoa Dị ứng – MDLS Bệnh viện Bạch Mai, kể từ năm 1961 đến nay, tỷ lệ hen phế quản ở nước ta dã tăng gấp hơn 3 lần, từ 2% – 6% dân số cả nước, tỷ lệ này ở trẻ em không dưới 10%.
MÃ TÀI LIỆU
|
LA.2000.00523 |
Giá :
|
|
Liên Hệ
|
0915.558.890
|
Hen phế quản có thể do rất nhiều yếu tố và nguyên nhân khác nhau gây ra: ô nhiễm môi trường, sử dụng thuốc và hoá chất bừa bãi, nhịp sống căng thẳng, nhiều stress, điều kiện khí hậu khắc nghiệt…. Một trong những yếu tố và nguyên nhân đóng vai trò quan trọng, đã được nhiều tác giả quan tâm và chứng minh đầy đủ, đó là nguồn dị nguyên bụi nhà và bọ nhà.
Để giúp cho việc chẩn đoán hen phế quản được chính xác, nhất là xác định được nguồn dị nguyên gây bệnh, đã có nhiều tác giả đề xuất các phương pháp chẩn đoán đặc hiệu và không đặc hiệu có giá trị như :
– Khai thác tiền sử dị ứng: A.Đ. Ado (1968-1981), J. Charpin (1973-1992) và gần đây là mẫu tính theo hệ thang điểm của ISAAC (International Study of Allergy and Asthma Childhood – Tổ chức quốc tế Nghiên cứu về bệnh dị ứng và hen phế quản trẻ em – 1994).
– Các tét da, chủ yếu là tết lấy da (prick test) do nhiều tác giả như: P.V. Radot. (1964), Zetlerström (1980), Gourghenidze (1987) đề xuất.
– Tét kích thích (provocation test): tét khí dung phế quản.
– Định lượng IgE, IgG toàn phần và đặc hiệu (RAST, RIST).
– Phản ứng chuyển dạng lympho T (TTL).
Ngoài ra, trong các nghiên cứu về cơ chế miễn dịch trong hen phế quản, nhiều tác giả còn nhấn mạnh đến vai trò của các tế bào : mastocyte, bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái kiểm, đại thực bào, tiểu cầu, các tế bào có thẩm quyền miễn dịch (Lympho T, B), vai trò của các hoạt chất trung gian (mediator): prostaglandin (D2, E2, F₂), leucotrien (B4, C4, D4, E₄), các cytokin: interleukin (IL₂ – IL, IL… IL13)… và đã chứng minh được vai trò của chúng trong cơ chế phát sinh bệnh hen phế quản.
Chính nhờ những phương pháp chẩn đoán đặc hiệu và không đặc hiệu, nghiên cứu cơ chế miễn dịch của hen phế quản một cách sâu sắc, ngày nay người ta đã chứng minh được vai trò quan trọng của dị nguyên bụi nhà, bọ nhà đối với hen phế quản, chúng có thể là nguyên nhân chính, chiếm tỷ lệ từ 60% – 70% so với các nguồn dị nguyên gây hen phế quản và các bệnh dị ứng khác.
Năm 1932 Storm van Lecuven là người đầu tiên nói về các con bọ nhà có trong bụi nhà, cho đến Voorhorst (1964) là người đã chứng minh một cách hệ thống vai trò dị nguyên của bọ nhà gây hen phế quản. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong việc nuôi cấy, tách chiết, sản xuất và tiêu chuẩn hoá dị nguyên bụi nhà, bọ nhà… áp dụng những thành quả nghiên cứu này trong việc điều trị hen phế quản ngày càng hiệu quả hơn.
Ở Việt Nam, trong khoảng vài chục năm gần đây, trước những kết quả thu được và tính phổ biến của bệnh hen phế quản do bụi nhà, bọ nhà gây ra, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bụi nhà, nhất là trong lĩnh vực điều chế và tiêu chuẩn hoá loại dị nguyên này. Đáng chú ý là nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Hướng, Nguyễn Văn Sửu và cộng sự – Viện Tai Mũi Họng trung ương (1976 – 1992), Nguyễn Năng An, Lê Văn Khang, Phan Quang Đoàn – Bộ môn Dị ứng Trường ĐHYK Hà nội (1982 – 1995). Từ những nguồn dị nguyên được điều chế, các tác giả đã áp dụng trong chẩn đoán và điều trị đặc hiệu trên người bệnh hen phế quản. Qua nghiên cứu, các tác giả đã thu được một số kết quả bước đầu hết sức quy giá, tuy nhiên vẫn còn một số điểm lưu ý: thời gian điều trị và theo dõi thường ngắn (từ 3-6 tháng), phương pháp chẩn đoán đặc hiệu chưa thành hệ thống, chưa có những nghiên cứu sâu về đặc điểm lâm sàng đặc điểm lâm sàng của hen phế quản do bụi nhà, các dị nguyên bụi nhà sản xuất thường không liên tục, chưa được chuẩn hóa và sử dụng rộng rãi …
Việc tìm kiếm những phương pháp chẩn đoán và điều trị đặc hiệu có hiệu quả, chất lượng, phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta vẫn đang là phương châm phấn đấu của các nhà khoa học chuyên ngành. Theo yêu cầu và sự giúp đỡ của Bộ môn Dị ứng ĐHY Hà Nội, Khoa Dị ứng – MDLS Bệnh viện Bạch Mai, hơn nữa với nguồn dị nguyên bụi nhà, bọ nhà đã được chuẩn hóa của Hãng Bayer Pharma cung cấp, trong điều kiện kinh phí và thời gian cho phép, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu :
1. Nghiên cứu những đặc điểm lâm sàng riêng biệt trong bệnh hen phế quản bụi nhà.
2. Đánh giá một số phương pháp chẩn đoán đặc hiệu, không đặc hiệu.
3. Bước đầu đánh giá kết quả điều trị giảm mẫn cảm đặc hiệu trên một số người bệnh hen phế quản bụi nhà.
Recent Comments