Vai trò cùa beta hCG huyết thanh trong theo dõi sau nạo chửa trứng, điểu trị u nguyên bào nuôi và một số yếu tố liên quan đến tái phát
Luận án Vai trò cùa beta hCG huyết thanh trong theo dõi sau nạo chửa trứng, điểu trị u nguyên bào nuôi và một số yếu tố liên quan đến tái phát.Bệnh nguyên bào nuôi (BNBN) là một bệnh phổ biến ở Việt Nam, bệnh bao gồm chửa trứng (CT) và u nguyên bào nuôi (ƯNBN), chửa trứng làm nguy cơ bị mắc ung thư biểu mô màng đêm do thai sản tăng lên so với các trường hợp sinh đè bình thường [107]. Nguyẻn Thìn (1982) [17] nhận xét thấy ở Việt Nam từ 1970 – 1979, tỷ lệ mắc chửa trứng là 1/680 phụ nữ sinh đẻ, Lê Điềm (1982) [7) nhân thấy tỷ lệ này tại Bộnh viện Phụ sản Hài Phòng là 1/635. Dương Thị Cương 1998 [50] đưa ra báo cáo tỷ lệ chửa trứng là 1/650 phụ nữ có thai. Đinh Xuủn Tửu (1983) [17] nhận thấy gần một phần ba số bệnh nhân chửa trứng biến thành u nguyên bào nuôi, số bệnh nhân bị bệnh ƯNBN hàng năm ước khoang 1829 trường hợp, tỷ lệ 1/573 phụ nữ có thai.
MÃ TÀI LIỆU |
LA.2004.00682 |
Giá : |
50.000đ |
Liên Hệ |
0915.558.890 |
Tỷ lộ chửa trứng tại Mỹ là 1/1500 – 2000 phụ nữ có thai, chửa trứng bán phần chiếm khoảng 10% các trường hợp chửa trứng, tỷ iệ biến chứng thành chửa trứng xâm lấn sau chửa trứng toàn phẩn khoảng 10 – 15%, tỷ lệ biến chứng thành ung thư biểu mô màng đệm khoảng 1/40 sau chừa trứng, 1/150 000 sau đẻ [56], [127], [128]. Tại châu Âu tỷ lệ chửa trứng là 1/1000 phụ nữ có thai, chừa trứng xâm lấn là 1/12 000, ung thư biểu mồ màng đệm là 1/40 000 [49]. Tại Trung Quốc thì tỷ lộ chửa trứng chiếm khoảng 0,78 – 0,81/1000 phụ nữ có thai, tỷ lệ này đặc biệt cao ờ những vùng duyên hải và phía nam Trung Quốc [99], [118]. Tại Nhật Bản, tỷ lộ chửa trứng 3,05/1000 phụ nữ có thai, tỷ lệ ung thư biểu mô màng đệm 0,83/10 000 phụ nữ sinh đẻ [129].
Trước những năm 1950, UNBN được điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật nhưng kết quả rất thấp; từ những năm 1950 trở đi việc điều trị chủ yếu dựa vào hoá chất và tỷ lệ thành công tăng lên cùng với những loại hoá chất mới; điều trị hoá chất có ưu điểm lớn đối với ƯNBN có di căn [8], [88], [133]. Tại Việt Nam, những phương pháp điểu trị và theo dõi mới đã bắt đầu được áp dụng đối
với bệnh ƯNBN, nhưng căn bệnh này vẫn có tỷ lệ tái phát và tử vong
cao.[3],[ll].
Kích dục tố rau thai (human chorionic gonadotropin – hCG) được chế tiết bởi nguyôn bào nuôi lành tính cũng như ác tính, phản ánh trung thực tình trạng hoạt động của nguyên bào nuôi trong cơ thổ và được sử dụng để chẩn đoán cũng như theo dõi trong điều trị bệnh nguyên bào nuôi [97].
Vào những năm 1940 và những năm 1950 người ta thường đo hCG và hormon hướng hoàng thể (luteinizing hormone – LH) dựa trôn tác dụng cùa chúng đối với tử cung của loài gậm nhấm, phương pháp này được thay thế vào năm 1960 bời phương pháp miẻn dịch. Vào nãm 1972, Vaitukaitis và cộng sự đã phát minh ra phương pháp miễn dịch phóng xạ (Radioimmunoassay – RIA) đo beta hCG bằng sử dụng kháng huyết thanh đối với tiổu đơn vị beta hCG và (tó là lần đầu tiôn người ta phàn biệt đựơc hCG và LH [132].
Từ trước năm 1996 tại Viện Bảo vệ Bà mẹ Trỏ sơ sinh (BVBMTSS) vẫn sử đụng xét nghiệm hCG nước tiểu trong chẩn đoán thai trứng và theo dõi sau nạo chửa trứng nhằm phát hiện biến chứng thành u nguyên bào nuôi. Ngày nay nhờ việc áp dụng siêu âm rộng rãi trong ngành Sản Phụ khoa kết hợp xét nghiệm hCG cho nên chửa trứng thường được chẩn đoán và xừ trí sớm hơn trước đây. Việc theo dõi sau nạo chừa trứng trước đây dược nêu trong y văn Việt Nam là dựa trên xét nghiệm hCG nước tiểu bằng phương pháp sinh vật học được thực hiện trèn ếch đực. Nếu hCG dương tính với 8 đến 12 mỉ nước tiểu sau nạo 4-5 tuần thì nghĩ tới biến chứng thành u nguyôn bào nuôi, xét nghiệm này mang tính chất định tính và khỏng cho biết được diễn biến nồng độ thực của hCG [10], [15]. Theo dõi điều trị ƯNBN dựa vào xét nghiệm định lượng hCG nước tiểu trên ếch đòi hòi phải pha loãng hoặc cô đặc nước tiểu, do đó kết quả xét nghiệm trả lời chậm và không theo dõi sát được diễn biến của bộnh. Tiêu chuẩn khỏi của bộnh nhân ƯNBN là xét nghiệm hCG cỏ đặc nước tiểu 24 giờ ảm tính, nhưng với tiêu chuẩn này tỷ lộ tái phát tới 19% [1 ỉ]. Xét nghiộm nước tiểu 24 giờ đòi hòi phải thu thập và bảo quản nước tiểu rất khó khăn và phức tạp, nếu xét nghiệm nước tiểu tức thì vào bất cứ thời gian nào thì nồng độ hCG rất biến động do phụ thuộc vào đậm độ nước tiểu cũng như chức năng lọc cùa cầu thận.
Viện BVBMTSS là một trong những trung tâm điều trị sản phụ khoa lớn của cả nước, phần lớn những bệnh nhân bị bộnh nguyên bào nuôi nhất là u nguyên bào nuôi đều được theo dõi và điều trị tại đây. Từ năm 1996, Viện BVBMTSS áp dụng kỹ thuật miễn dịch men vi thể (microparticle enzyme immunoassay) xét nghiệm beta hCG huyết thanh bằng máy IMx của hãng Abbott. Việc áp dụng xét nghiệm beta hCG huyết thanh để theo dõi sau nạo chửa trứng cũng như điều trị u nguyên bào nuôi là một vấn đề mới mè ở Việt Nam, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Vai trò cùa beta hCG huyết thanh trong theo dõi sau nạo chửa trứng, điểu trị u nguyên bào nuôi và một số yếu tố liên quan đến tái phát”.
Mục tièu của nghiên cứu:
1/ Mô tả diỗn biến cùa nồng độ beta hCG sau nạo chửa trứng.
2/ Đánh giá tình trạng tái phát của bệnh nhân bệnh nguyên bào nuôi có nổng độ beta hCG huyết thanh < 5 IƯ/1.
3/ Mô tả một số yếu tố liốn quan tới tái phát u nguyôn bào nuôi.
Recent Comments