Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị viêm phổi do vi khuẩn kháng,Kháng sinh ở trẻ em
Luận án Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị viêm phổi do vi khuẩn kháng,Kháng sinh ở trẻ em
Luận án tiến sỹ y học : Đỗ Thị Thanh Xuân
Chuyên ngành : Nhi Nhi Khoa Năm bảo vệ : 2000
Hướng dẫn khoa học : GS.TS Trần Quỵ, PGS.TS Nguyễn Hữu Hồng
Cuối thế kỷ 19, sự phát hiện và chứng minh vai trò gây bệnh của các vi khuẩn đường hô hấp ở người đã mở đường cho sự ra đời của kỷ nguyên kháng sinh, với việc sử dụng sulphamid điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn vào năm 1936. Tuy nhiên, thời kỳ vàng son của kháng sinh chỉ thật sự mở đầu vào năm 1941, khi việc điều trị bằng penicilin đã cứu sống hàng triệu con người [234]. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhiều thế hệ kháng sinh mới xuất hiện đã tác động mạnh mẽ đến kết quả điều trị và sự lan truyền của các bệnh nhiễm khuẩn.
MÃ TÀI LIỆU
|
LA.2000.00521 |
Giá :
|
|
Liên Hệ
|
0915.558.890
|
Nhưng ngay từ rất sớm, người ta đã nhận ra rằng các vi sinh vật có khả năng đáng kể chống lại các chất kháng sinh, làm hạn chế, thậm chí đảo ngược tác dụng hữu ích của các dược chất này [91] [211]. Kháng kháng sinh, nói khác đi là khả năng thích ứng của vi sinh vật với môi trường có mặt chất kháng sinh, vốn chẳng phải là điều xa lạ đối với sự chọn lọc tự nhiên để sinh tổn, nhưng đã làm cho các bệnh nhiễm khuẩn, ngay trong trình độ phát triển rất cao của y học ngày nay, vẫn là nguy cơ đe doạ sức khoẻ và tính mạng con người. Trẻ em, những bệnh nhân mà 60% bệnh tật là do nhiễm khuẩn [208] 211] [226] [231], phải dùng kháng sinh nhiều hơn bất kỳ loại thuốc nào.
Trong các bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ em, bệnh phổi là thách thức rất ghiêm trọng. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 10 triệu trẻ em chết vì bệnh hiễm khuẩn thì 4 triệu là nạn nhân của bệnh viêm phổi [226]. Theo thông io của Chương trình Quốc gia phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ n, tại Việt Nam, với 7 triệu trẻ dưới 5 tuổi, ước tính số tử vong do viêm phổi hông dưới 20.000 mỗi năm. Việc sử dụng vacxin phòng ngừa bệnh viêm hổi ở trẻ em lại rất hạn chế, vì khả năng miễn dịch của trẻ em còn yếu. Trong ệnh phẩm thu được từ phổi trẻ em viêm phổi ở các nước đang phát triển, tỷ lệ phân lập được vi khuẩn vượt quá 65% [61], trong đó S.pneumoniae và H.influenzae, hai loài vi khuẩn chủ yếu gây bệnh chiếm tỷ lệ 30 – 60% và 15-30% [78] [158] [201] [204]. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy 5 -30% S.pneumoniae kháng penicilin, 10 40% H.influenzae và 70 90% M.catarrhalis có khả năng sinh beta-lactamase, làm bất hoạt kháng sinh nhóm beta-lactam. Khả năng đề kháng với kháng sinh của S.aureus còn đáng kinh ngạc hơn, 90-95% S.aureus sinh penicilinase và 15-30% có khả năng chống lại các kháng sinh bền vững với beta-lactamase như oxacilin, methicilin [45] [47] [53] [60] [80] [88] [89] [91] [92] [93] [110] [114] [124] [133] [146] [148] [149] [159] [193] [207] [212] [220] [221]. Vi khuẩn gây bệnh viêm phổi không chỉ để kháng với kháng sinh nhóm beta-lactam mà còn cả với nhiều kháng sinh khác.
Theo thông báo của Chương trình Quốc gia giám sát tính kháng thuốc của các vi khuẩn gây bệnh, tại Việt Nam năm 1993 đã có 12,7% S.pneumoniae kháng penicilin, 34,4% S.pneumoniae và 26,8% H. influenzae kháng chloramphenicol [14] [15]. Do việc lạm dụng kháng sinh đã gây nên tình trạng bức xúc kháng kháng sinh trong điều trị và ngày càng nhiều trẻ em viêm phổi nặng và rất nặng do vi khuẩn kháng kháng sinh. Hạ thấp tỉ lệ tửvong trẻ em do viêm phổi, tựu chung có ba con đường:
Trước hết đó là những cố gắng tìm kiếm các loại kháng sinh mới, công việc làm được chủ yếu ở các nước tiên tiến. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của hoá dược kháng sinh dường như không theo kịp với tốc độ gia tăng khả năng để kháng của vi khuẩn [56] [233]. Tới những năm 80, các cephalosporin phố rộng mới được đưa vào sử dụng, nhưng chỉ 10 năm sau đã xuất hiện các chủng vi khuẩn để kháng với những kháng sinh này.
Con đường khả dĩ thứ hai là lựa chọn các công thức điều trị kháng sinh đúng đắn, không những chữa khỏi bệnh mà còn ngăn chận được sự phát triển và lan tràn của vi khuẩn kháng thuốc [68] [162] [212] [232]. Để có được sự lựa chọn đúng đắn đó, người thày thuốc phải hiểu được căn nguyên vi khuẩn gây bệnh và mức độ để kháng với kháng sinh của mỗi loài vi khuẩn [62] [63] [109].
Con đường thứ ba là tăng cường quản lý việc sản xuất và sử dụng thuốc kháng sinh [63] [161] [212].
Nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề này, vì thế, là đòi hỏi cấp bách của y học, nhưng lại chưa được đề cập đến một cách đầy đủ trong các công trình nghiên cứu trước đây về viêm phổi trẻ em ở Việt Nam. Nhằm góp phần giải quyết vấn đề cấp thiết ấy, chúng tôi tiến hành công trình " Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị bệnh viêm phổi do vi khuẩn kháng kháng sinh ở trẻ em" với 3 mục tiêu là:
1- Nghiên cứu căn nguyên vi khuẩn và mức độ để kháng với kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh viêm phổi ở trẻ em.
2- Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng của bệnh viêm phổi do vi khuẩn kháng kháng sinh.
3- Đánh giá hiệu quả lâm sàng của một số kháng sinh trong điều trị bệnh viêm phổi do vi khuẩn kháng kháng sinh ở trẻ em.
Recent Comments